Thiết kế và phát triển County (lớp tàu tuần dương)

Tàu tuần dương hiệp ước với tải trọng 10.000 tấn là kiểu tàu chiến đầu tiên được chế tạo theo những giới hạn được sự đồng ý của quốc tế.[3] Những giới hạn này đặt ra đặt ra những thách thức về kỹ thuật và bắt buộc các nhà thiết kế phải có sự thỏa hiệp[2] để có thể có được sự cân bằng tốt nhất giữa tốc độ, vũ khí và sự bảo vệ. Hải quân Hoa Kỳ áp dụng một thiết kế với tháp pháo ba nòng, cho phép rút ngắn chiều dài của thân tàu, và nhờ đó tiết kiệm được trọng lượng để dành cho việc bảo vệ. Tuy nhiên cách tiếp cận này đòi hỏi phải trang bị một hệ thống động lực với công suất lớn hơn, vì tốc độ của con tàu là một hàm thuận với tỉ lệ giữa chiều dài con tàu và độ rộng của mạn thuyền. Hải quân Hoàng gia có nhu cầu về một kiểu tàu chiến để bảo vệ các tuyến đường thương mại thuộc địa, vốn cần một tầm hoạt động đường trường xa và tốc độ tốt. Điều này đã xác định việc cần có một lườn tàu dài và sử dụng các tháp pháo nòng đôi, trong khi nọi trọng lượng còn lại được dành cho sự bảo vệ.

Thiết kế lớp County tỏ ra khá thận trọng, đặc biệt là khi so sánh với thiết kế của lớp thiết giáp hạm Nelson đương thời cùng được chế tạo để thỏa mãn những giới hạn của cùng hiệp ước. Lườn tàu dài đến 192 m (630 ft), có dạng ngang thẳng cũng như có phần nổi cao, và được chế tạo chắc chắn. Điều này cung cấp độ ổn định cao,[2][3] góp phần vào việc bảo vệ con tàu. Chỗ dành cho hệ thống động lực tiếp nối cách sắp xếp truyền thống đặt các nồi hơi phía trước các phòng động cơ, được ngăn cách bởi một hầm đạn giữa tàu. Hai phòng nồi hơi được cho thoát khí thải vào bốn ống thoát, trong đó cặp ở giữa được kết hợp vào một ống khói lớn hơn ở giữa. Thiết kế ba ống khói trông đẹp mắt, nhưng ở cách nào đó tỏ ra không thực tế ở khía cạnh sử dụng các chỗ trống bên trong.[2]

Như đã được thử nghiệm trên chiếc tàu tuần dương thời chiến HMS Emerald mà việc hoàn tất bị trì hoãn cho đến sau chiến tranh, những chiếc County có một kiểu thiết kế mới về cấu trúc thượng tầng phía trước bao gồm cầu tàu dẫn đường, phòng lái, các bệ tín hiệu và la bàn cùng hệ thống kiểm soát hỏa lực được bố trí trong một khối duy nhất. Tiến bộ này hợp lý hóa một cách đáng kể việc có một tháp điều khiển bọc thép riêng biệt và vô số sàn tàu và bệ trên những thiết kế cũ hơn. Việc tháo bỏ các thiết bị điều khiển hỏa lực khỏi cột buồm chính đã loại trừ nhu cầu cần có một cột buồm ba chân nặng nề, và một cột ăn-ten nhẹ là đủ cho nhu cầu thông tin tín hiệu cũng như để giăng các ăn-ten vô tuyến.

Vũ khí trang bị

Dàn pháo chính được trang bị là kiểu hải pháo BL 203 mm (8 inch)/50 caliber, được bố trí đồng đều trên các tháp pháo nòng đôi bắn thượng tầng phía trước và phía sau. Thiết kế các tháp pháo tỏ ra phức tạp một cách không cần thiết[2][4] so với yêu cầu ban đầu khi đặt ra khả năng làm hỏa lực phòng không, và do đó có một góc nâng tối đa lên đến 70°, cho dù nó không có khả năng xoay và nâng đủ nhanh để dò theo các mục tiêu trên không, và hoàn toàn thiếu sót một hệ thống điều khiển hỏa lực phù hợp.

Dàn pháo hạng hai bao gồm bốn khẩu đội QF 102 mm (4 inch)/45 caliber Mark V trên các tháp pháo HA Mark III nòng đơn được nạp đạn từ hầm đạn giữa tàu; và hai ống phóng ngư lôi bốn nòng đạt giữa tàu, một bộ mỗi bên mạn. Các khẩu pháo 102 mm (4 inch) Mark V nòng đơn sau đó được thay thế bằng kiểu Mark XVI trên các bệ nòng đôi. Trong một nỗ lực vô vọng nhằm giữ cho con tàu bên trong những giới hạn tải trọng, kiểu Mark XVI được tháo dỡ để tiết kiệm trọng lượng, và được thay thế bằng kiểu Mark XVII, một việc được mô tả là "vụn vặt một cách lố lăng".[5] Chúng sau đó được cải biến ngược trở lại thành kiểu Mark XVI.

Thiết kế ban đầu dự định trang bị bốn khẩu đội phòng không QF 2 pounder Mk.VIII pom-pom tám nòng, nhưng do các biện pháp giảm trọng lượng được áp dụng, chúng không được trang bị, và các khẩu đội QF 2 pounder Mark II được bố trí thay thế trên bốn bệ pháo nòng đơn. Thiết kế cũng dành chỗ cho một máy phóng xoay được và một cần cẩu dành cho hoạt động của máy bay, cho dù một lần nữa chúng không được cung cấp.

Sự bảo vệ

Thiết kế ban đầu chỉ dành ra ít trọng lượng phân phối cho sự bảo vệ, đặc biệt là dưới sự khó tính của các nhà thiết kế muốn tuân thủ từng câu chữ của hiệp ước. Vì vậy, đai giáp hông theo truyền thống bị loại bỏ, và lớp bọc bên hông lườn tàu dày 1 inch (25 mm) chỉ đủ để bảo vệ chống lại mảnh đạn pháo. Một sàn tàu bảo vệ dày 32 mm (1,25 inch) được đặt bên trên các khoang động cơ, và các "hộp thành trì" bảo vệ các hầm đạn; bệ pháp pháo dày 64 mm (2,5 inch) và các mặt hông dày 102 mm (4 inch), được đóng lại bởi các vách ngăn dày 64 mm (2,5 inch). Hộp thành trì phía sau được giảm bớt độ dày ở hai đầu, và ở giữa tàu được làm mỏng đi khi chúng được bố trí trong phạm vi sàn tàu bọc thép và lớp bọc bên hông. Một vòng cung dày 38 mm (1,5 inch) bố trí bên trên bánh lái được đóng lại bằng một vách ngăn dày 25 mm (1 inch). Các tháp pháo và ụ tháp súng chỉ được bảo vệ bằng lớp mỏng chống mảnh đạn pháo, cũng như là các bệ hoa tiêu dẫn đường. Một bầu bên ngoài được sử dụng để bảo vệ chống lại ngư lôi.